Tuyên ngôn độc lập - Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Học Lớp

Administrator
Thành viên BQT
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
I. Đọc – tìm hiểu
1. Hoàn cảnh sáng tác – mục đích sáng tác – đối tượng
Hoàn cảnh sáng tác: Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh trên khắp cả nước, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945 chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân, ngày 26/8/1945 Bác Hồ từ chiến khu VB trở về HN tại số nhà 48 phố Hàng Ngang (tư gia nhà tư sản Trinh Văn Bộ), người đã soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Bà Đình lịch sử, trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt chính phủ lâm thời của nước VN Dân chủ cộng hòa đọc bản TNĐL khai sinh ra nước VN độc lập

Bản TNĐL đã ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, tình hình đất nước còn nhiều bất ổn, tuy chúng ta đã đánh đổ chế độ thực dân nửa phong kiến. Ở HN cờ đỏ sao vàng đã rực rỡ tung bay song ở phía Nam, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh tiến vào Đông Dương. Ở phía Bắc quân đội Tưởng Giới Thạch đã trực sẵn biên giới. Mâu thuẫn giữa Mỹ - Anh – Pháp và Liên Xô có thế khiến cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương. Cùng lúc ấy chuẩn bị cho lần xâm lược lần hai của mình, thực dân Pháp đã tung ra trong dư luận quốc tế những lý lẽ hung hồn của bọn ăn cướp rằng: Đông Dương đã là thuộc địa của Pháp, Pháp đã có công khai hóa đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên khi phát xít Nhật đã bị đồng minh đánh bại. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, khi vận mệnh của đất nước Cộng hòa non trẻ đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc nguy cơ thù trong giặc ngoài, vấn đề độc lập chủ quyền dân tộc được đặt ra vô cùng cấp bách.

- Mục đích sáng tác:
  • Đối tượng: mà bản TNĐL hướng tới là toàn thể quốc dân đồng bào nhân dân tiến bộ trên thế giới (nhất là các nước đồng minh) và kẻ thù của dân tộc ( Pháp và đế quốc Mỹ)
  • Mục đích sáng tác: Bản TNĐL đã khai sinh ra nước VNDCCH, bác bỏ, đập tan âm mưu luận điệu sảo trá của kẻ thù. Đồng thời khẳng định và nêu cao quyết tâm của toàn dân tộc trong việc giữ vững nền độc lập.

2. Giá trị tác phẩm:
TNĐL của HCM là một tác phẩm mang nhiều giá trị nổi bật trên hai phương diện lịch sử và văn hóa.

a. Giá trị lịch sử:

TNĐL là một văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ, vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho đất nước ta. TNĐL là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta có ý nghĩa cổ vũ, khích lệ phong trào dân tộc giành độc lập của các nước thuộc địa trên toàn thế giới.

b. Giá trị văn học:
TNĐL là một áng văn chính luận mẫu mực, sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn đầy cảm xúc là một tác phẩm chan chứa tinh thần yêu nước tiếp nối và kế thừa truyền thống yêu nước, văn hóa dân tộc
- TNĐL thuộc kiểu văn chính luận, bố cục gồm:
+ Phần 1: Từ đầu đến “được”: Cơ sở pháp lý ( lập luận mang tính nguyên tắc)
+ Phần 2: tiếp đến “độc lập”: Cơ sở thực tế - bản cáo trạng vạch tội kẻ thù – lập luận nhằm bác bỏ, luận điệu âm mưu và xảo trá của kẻ thù.
+ Phần 3: Độc lập đến hết: Lời tuyên bố độc lập và quyết tâm giữ vững độc lập tự do dân tộc.

c. Nhận định:
“ Trong lịch sử dân tộc có những văn kiện có tầm vóc lịch sử vĩ đại vừa có giá trị văn hóa. Đó là Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi và TNĐL của HCM. Đại cáo cũng như TN là thể chính luận được viết vào thời điểm có sự kiện chính trị trọng đại nhằm tuyên bố thắng lợi khẳng định, đề ra những nguyên tắc đảm bảo quyền lợi cho con người, nhân dân, dân tộc. Trên thế giới đã có những bản TN nổi tiếng TNĐL của Mỹ năm 1776, TN nhân quả và dân quyền cách mạng Pháp năm 1791, TNĐL của VN ngày 1/9/1945 không chỉ mở đầu kỷ nguyên độc lập tự do của nước VN. Sau 80 năm đô hộ thực dân Pháp và sau hơn 1000 năm chế độ phong kiến mà còn mở đầu cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.

II. Vấn đề 1: TNĐL là áng văn chính luận mẫu mực.

MỞ BÀI: Mỗi văn kiện đều có những văn kiện đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của lịch sử. “Trên thế giới đã có những bản TNĐL nổi tiếng như TNĐL của nước Mỹ năm 1776, TN nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng Pháp và TNĐL của nước VN ngày 2/9/1945. Không chỉ mở đầu kỷ nguyên độc lập của nước VN sau 80 năm đô hộ của thực dân Pháp sau hơn 1000 năm chế độ phong kiến mà còn mở đầu cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới”. TNĐL là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân dân ta, một tác phẩm chan chứa: tinh thần yêu nước tiếp nối và kế thừa truyền thống yêu nước, văn hóa dân tộc.
THÂN BÀI:
LĐ 1: Nêu vắn tắt hoàn cảnh sáng tác – xx – mục đích sáng tác
LĐ 2: Sử dụng lập luận, phân tích, so sánh bình luận để làm rõ những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “TNĐL”

a. Đặt vấn đề: Cơ sở pháp lý của bản TN

Chủ tịch HCM đã lựa chọn cách đặt vấn đề độc đáo cho bản TNĐL bằng việc trích dẫn những lời bất hủ trong hai bản tuyên ngôn. TNĐL của nước Mỹ năm 1776 và TN nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1791.

‘Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi,và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những chân lý không ai có thể chối cãi được. Việc trích dẫn này không chỉ nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân đạo của văn minh nhân loại mà còn nêu ra nguyên lý về quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và các dân tộc. Việc trích dẫn của Bác càng thể hiện sự mềm dẻo khéo léo và kiên quyết. Tác giả đã thể hiện sự trân trọng với người Pháp, người Mỹ bởi trong quá khứ họ đã làm nên cuộc cách mạng tư sản vĩ đại cho nhân loại, tác động sâu xa tới đời sống con người. Tuy nhiên người cũng ngầm nhắc nhở đối phương đừng tự chà đạp phản bội lại những tư tưởng cao đẹp mà tổ tiên họ đã thừa nhận. Hơn thế nữa khi nhắc đến hai bản TN của Pháp và Mỹ ngay trong phần mở đầu của TNĐl tức là Bác đã đặt ba bản TN ngang nhau, ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập ngang nhau. Đấy đều là điều hoàn toàn xứng đáng bởi cuộc cách mạng của dân tộc VN đã cùng một lúc giải quyết hai nhiệm vụ trong hai cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Đó là đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ dân chủ để lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Cách lập luận của Bác trọng việc suy rộng ra....”Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do”. Là một đóng góp vô vùng quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn học nổi tiếng của nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ người đã phát triển quyền con người thành quyền lợi của dân tộc”. Như vậy tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình. Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kì bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, làm sụp đổ chế độ thực dân trên khắp thế giới trong những năm 60, 70 của thế kỉ XX.

Từ ý kiến suy rộng ra của Bác chúng ta thấy được một tầm nhìn xa trông rộng trí tuệ siêu việt của HCM. Do đó, phần đặt vấn đề có ý nghĩa không chỉ về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về mặt tư tưởng, ngắn gọn, hàm xúc và nêu bật được vấn đề. Khẳng định quyền sống, quyền bình đẳng và quyền tự do của mỗi quốc gia.

b. Giải quyết vấn đề: Bản cáo trạng vạch tội kẻ thù (những lập luận nhằm bác bỏ âm mưu luận điệu xảo trá của kẻ thù)
Bác bỏ công lao khái hóa của thực dân Pháp:
Trong phần đặt vấn đề bằng cách vận dụng khéo léo sáng tạo lập luận chặt chẽ từ việc nêu ra nguyên lí mang tính phổ quát, nguyên lí về quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người trong các dân tộc. Tiếp đó để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ để đẩy lùi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta là thực dân Pháp. Bác đã nêu lên hàng loạt lí lẽ và lập luận đầy sức thuyết phục về mặt pháp lí nhằm bác bỏ luận điệu của kẻ thù. Câu văn xuôi của Bác mạnh mẽ và dứt khoát, làm nổi bật tội ác của quân thù, cấu trúc câu văn linh hoạt với phép điệp từ điệp ngữ, điệp cú pháp.

Trước hết người vạch trần luận điệu về công lao “khai hóa” của nước Pháp đối với Đông Dương. Người chỉ ra rằng những hành động của chúng “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện chính trị và kinh tế, chúng thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ Tổ quốc ta thành ba kì. Chúng đã tắm các phong trào yêu nước cách mạng của ta trong những bể máu. Chúng thi hành chính sách ngu dân. Đầu độc dân ta bằng thuốc phiện và rượu cần. Bóc lột vơ vét đến tận xương tủy làm cho dân ta xơ xác tiêu điều. Sự cấu kết của phát xít và thực dân đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Như vậy thực dân Pháp không hề khai hóa mà đã và đang khai tử cả một dân tộc và một giống nòi.

Bác bỏ công bảo hộ: Thực dân Pháp vẫn nêu cao trên dư luận quốc tế về công lao bảo hộ của chúng đối với đất nước nhân dân ta. Bản TNĐL của HCM đã vạch trần luận điệu xảo trá đó. Tác giả đã chỉ rõ chẳng những không bảo bộ nước ta mà trong năm năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Từng câu, từng chữ như chất chứa sự hờn căm khôn tả, như lời kết án đanh thép, như những mũi tên bắn thẳng vào kẻ thù xâm lược.

Bác bỏ luận điệu của thực dân Pháp: Để bác bỏ lời tuyên bố thực dân rằng Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp thuộc phe đồng minh và Phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh, thực dân Pháp có quyền quay lại chiếm Đông Dương. Bản TN chỉ rõ thực dân Pháp đã đầu hàng phát xít Nhật kẻ thù của đồng minh dâng Đông Dương cho Nhật và Pháp không còn tư cách đồng minh để trở lại VN.

Nhân dân ta đã giành được độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành trước khi đồng minh đến đây. Luận điểm này đúng về mặt ý nghĩa pháp lí, là vấn đề vô cùng quan trọng nó dẫn tới lời tuyên bố hùng hồn của bản TN: “Bởi thế cho nên chúng tôi lâm thời chính phủ nước VN mới, đại biểu cho toàn dân VN tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN. Xóa bỏ tất cả những đặc quyền của Pháp trên đất nước VN.

Việt Nam đã tự mình giành độc lập, đó là một thực tế không thể chối cãi, VN phải được độc lập theo đúng nguyên tắc trong hội nghị Cựu Kim Sơn. Nước VN có quyền được hưởng tự do và độc lập, sự thật đã trờ thành nước Tự do và Độc lập. Đây cũng là những lí lẽ nhằm thắt buộc đồng minh. Họ đã công nhận quyền bình đẳng các dân tộc thì không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc VN. Dân tộc ta đã đứng về phe đồng minh chống phát xít vì vậy hoàn toàn có quyền được hưởng Tự do và Độc lập.

c. Những lập luận nhằm khẳng định tư cách được hưởng tự do độc lập của dân tộc Vn và lời tuyên bố độc lập và quyết tâm giữ vững nền độc lập của dân tộc.

Nếu thực dân Pháp có tội phản bội đồng minh dâng Đông Dương cho Nhật thì nước ta đã anh dũng chống Nhật với tư cách là một thành viên của đồng minh.

Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát phản động, thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa, thậm chí đến khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng. Nhân dân ta đã giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo với kẻ thù khi chúng đã thất thế. “Sau cuộc biến động ngày 5/3 Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thủy cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã nêu cao tinh thần nhân đạo bác ái. Như thế “dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập. Với tuyên ngôn dứt khoát, ngắn gọn nhưng chặt chẽ, tuyên bố thoát li hẳn, xóa bỏ hết,xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Khẳng định tình thế lịch sử của dân tộc trong một câu văn ngắn gọn và xúc tích: “Pháp chạy, Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị”. Cùng với hàng loạt lời tuyên bố trịnh trọng cuối cùng đối với thế giới. Cũng là lời khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, mang ý vị của một lời thề: “Nước VN có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và liều lĩnh tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.

LĐ 3: Bình luận ý nghĩa của bản TN và những đặc sắc trong nghệ thuật. - Khẳng định giá trị lịch sử và giá trị văn hóa của TNĐL

TNĐL của HCM là một áng văn chính luận mẫu mực, mẫu mực về nội dung và nghệ thuật. Thể hiện tư tưởng, trí tuệ của một bậc đại trí, đại nhân và đại dũng. Tác phẩm thuyết phục người đọc không chỉ bằng các lí lẽ và lập luận chặt chẽ mà còn lay động hàng triệu trái tim độc giả, bởi lời văn tràn đầy cảm hứng yêu nước và nhân đạo khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi dõng dạc, nêu cao quyền độc lập của dân tộc. Lời văn ngắn gọn kết cấu chặt chẽ ngôn ngữ xúc tích,chính xác và giàu sức biểu cảm. Bác đã sử dụng các biện pháp tu từ, tu từ từ vựng và tu từ cú pháp. Trong một đoạn văn ngắn mà người dùng đến mười ba chữ quyền. Trong mười bốn câu, câu nào cũng có từ “chúng” – nặng như búa tả. “Mỗi chữ chúng ấy mỗi tội ác của chúng ấy như trút xuống những chúng ta làm xúc động lòng người. Hai lần Người nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn lần Người nhấn mạnh chữ dân tộc”. Những câu văn điệp lại giống như những nhát dao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn. “Dân tộc đó phải được tự do” đọc lên nghe sảng khoái biết chừng nào” – Chế Lan Viên.

THÂN BÀI

Nếu Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi được coi là áng hùng văn của thời trung đại thì TNĐL của HCM xứng đáng là áng hùng văn của thời hiện đại. Đó vừa là bản tổng kết lịch sử vừa là khát vọng hướng tới độc lập tự do, hướng tới hạnh phúc ấm no, chất chứa một lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc, là sự kết tinh thiên tài HCM.

Đằng sau mỗi câu văn là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn đã được tổng kết trong một văn bản trong sáng và khúc chiết, TNDDL cũng đã trở thành một dấu son đậm nét trong lịch sử văn hóa yêu nước của dân tộc.