Ngữ văn 9 Phân tích chi tiết đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Học Lớp

Administrator
Thành viên BQT
Mở bài

Trong Truyện Lục Vân Tiên, nhân vật Lục Vân Tiên là một hình tượng, đẹp, thể hiện rõ lí tưởng của người anh hùng:

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

Chúng ta hãy tìm hiểu qua đoạn truyện Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.

Thân bài

Hai câu thơ trên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” là lời Lục Vân Tiên nói với Kiều Nguyệt Nga, sau khi chàng đã đánh tan bọn cướp, cứu người vô tội thoát nạn. Một câu nói phản ánh rõ lí tưởng của người anh hùng. Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

a. Đánh cướp, cứu người là một việc nghĩa

Trên đường đi (lên kinh đô dự thi), thấy dân “than khóc tưng bừng”, “đem nhau chạy”, Lục Vân Tiên đã dừng lại hỏi han. Thấy dân gặp nạn, không làm ngơ, đó là một hành vi vì nghĩa. Khi biết đó là bọn cướp đã từng:

Nhóm nhau ở chốn Sơn đài

Người đều sợ nó có tài khôn đương

và:

“Bây giờ xuống cướp thôn hương

Thấy con gái tốt qua đường bắt đi”

Lục Vân Tiên quyết định ngay:

“Tôi xin ra sức anh hào

Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.

Hành động dứt khoát “… ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”, bất chấp lời khuyên can của người dân chạy cướp: “E khi họa hổ bất thành, Khi không mình lại xô mình xuống hang”, đó cũng là một hành vi vì nghĩa.

Lục Vân Tiên đàng hoàng thách thức bọn cướp, nhanh chóng đánh tan lũ “hung đồ”:

Vân Tiên tả đột hữu xông

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang

Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giáo tìm dàng chạy ngay

Phong Lai chẳng kịp trỏ tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong

Dám xông vào chỗ chết đánh tan lũ cướp, cứu người mác nạn, đó là một biểu hiện cao cả của hành động vì nghĩa.

b. Thấy việc nghĩa phải làm mới là người anh hùng

– Việc nghĩa như đã nói ở trên là hành động vì lẽ phải, vì công bằng (đánh cướp, cứu người mác nạn cũng là dẹp tan lũ cướp để dân khỏi phải “việc chi than khóc tưng bừng, đều đem nhau chạy vào rừng lên non”), không sợ hi sinh. Nói một cách khác, đó là hành động vì người khác (không vì mình), vì nhân dân.

– Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Một quan niệm rõ ràng, dứt khoát về người anh hùng. Thái độ và hành động của Lục Vân Tiên là đường hoàng, dứt khoát: thấy việc nghĩa là làm (thấy bọn cướp là phải ra tay tiêu diệt ngay). Lục Vân Tiên không nhận sự đền ơn của Kiều Nguyệt Nga. Kiều Nguyệt Nga chân thành, tha thiết tò lòng biết ơn và xin được trả ơn

– Được cứu thoát khỏi lũ cướp, Kiều Nguyệt Nga chân thành và tha thiết tỏ bày:

“Chút tôi liễu yếu đào thơ

Giữa dường lâm phải bụi dơ đã phần.

Hà Khê qua đó cũng gần

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.

Gặp đây đang lúc giữa đàng

Của tiền không có bạc vàng cũng không

Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.

Việc “báo đức thù công” cũng là việc hợp với đạo nghĩa xưa nay. Nếu người làm ơn không nhận sự trả ơn thì người chịu ơn không đành lòng. Cho nên, việc Kiều Nguyệt Nga trả ơn và việc Lục Vân Tiên nhận sự đền đáp cửa Nguyệt Nga nếu có, thì cũng hợp với đạo lí thông thường. Nhưng Lục Vân Tiên vẫn khăng khăng không nhận sự đền ơn. Như trên đã nói, tấm lòng thành thực, thiết tha của Kiều Nguyệt Nga:

“Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”

vẫn không làm đổi thay được lòng “trọng nghĩa, khinh tài” của Lục Vân Tiên:

“Vân Tiên nghe nói liền cười:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.

Cả khi Kiều Nguyệt Nga trao trâm:

“Thưa rằng: Nay gặp tri âm

Xin đưa một vật đề cầm làm tin”

Vân Tiên cũng không chịu nhận (vì đó cũng là của cải vật chất), mà chỉ nhận một bài thơ “giã từ”của nàng.

Nguyệt Nga:

“Đưa trâm chàng đã làm ngơ

Thiếp xin dưa một bài thơ giã từ”.

Vân Tiên:

“Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu”.

Đành rằng ở đây ngoài chữ “ân” còn có chữ “tình”, nhưng với thái độ “làm ơn há dễ trông người trả ơn” tiếp sau hành động quên mình cứu người mác nạn càng làm đẹp thêm lí tưởng của người anh hùng mà Vân Tiên đã hằng ôm ấp và thực hiện:

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Cái đẹp của lí tưởng người anh hùng. Đó là cái đẹp của lí tưởng nhân nghĩa. Quên mình cứu người. Người được cứu là những người dân, người phụ nữ lương thiện, yếu đuối. Nếu Lục Vân Tiên không xả thân diệt lũ cướp thì họ đâu được bảo toàn sinh mạng, của cải, phẩm giá. Trọng nghĩa, khinh tài. Trước sau Lục Vân Tiên vẫn lòng dạ sáng trong:

“Làm ơn há dễ trông người trả an”.

Chàng không nhận bất cứ một hình thức đền ơn nào của người được mình cứu: từ. việc ghé đến nhà, nhận tiền của, bạc vàng cho đến một cái trâm “cầm làm tin”. Đó là cái đẹp của đạo lí nhân dân.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho. Lục Vân Tiên cũng là một nho sĩ. Nhưng lí tưởng nhân nghĩa mà nhà văn đã ngợi ca trong truyện Lục Vân Tiên phù hợp với đạo lí của nhân dân. Đó là đạo lí: kẻ ác phải bị trừng phạt, người thiện phải được hạnh phúc.

Kết bài

Đoạn truyện Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khắc họa rõ nét phẩm chất tốt đẹp của một Lục Vân Tiên dũng cảm, xả thân cứu người, trọng nghĩa, khinh tài.

Lời Lục Vân Tiên nói với Kiều Nguyệt Nga phản ánh rõ quan niệm về lẽ sống, về lí tưởng của con người anh hùng;

“Nhớ cầu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế áy cũng phi anh hùng”.

Lục Vân Tiên cũng như nhiều nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên (Hớn Minh, Vương Tử Trực…) đều đã hành động theo đúng lí tưởng nói trên, là những hình tượng nhân vật mang rõ nét dũng khí của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.