Ngữ văn 11 Phân tích đây thôn vĩ dạ của Hàn Mạc Tử

Học Lớp

Administrator
Thành viên BQT
Tham khảo Phân tích đây thôn vĩ dạ của Hàn Mạc Tử ngắn gọn và đủ ý nhất bao gồm nội dung tóm tắt kiến thức về tác giả, tác phẩm và tìm hiểu, phân tích tác phẩm.
đây thôn vĩ dạ.JPG

BÀI LÀM: PHÂN TÍCH ĐÂY THÔN VĨ DẠ NGẮN GỌN
Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.

Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. . Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.

Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ Huế : gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa

Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, ròi rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.

Hai câu kết đoạn cũng đem đến ân tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy. Cảnh đẹp song vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sông trăng.... Dòng song dường như bị ảo hoá, không còn là song nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sang tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo. Đại từ phiếm chỉ " ai" nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ " kịp tối nay" là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo ấu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi. Tín hiệu mong chơ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.

Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hình ảnh " khách đường xa" đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử? : khách xa gặp lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xôi- em- là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân " khách" đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình,vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở. Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo : áo em trắng quá nhìn không ra. Câu thơ đầy đam mê " áo em trắng quá" nhưng cũng thật hụt hẫng xót xa " nhìn không ra". Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan : ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan : trái tim trong tà áo trắng kia cung hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt. Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn " ai biết tình ai" có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha". Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không?; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?

Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.

BÀI VĂN PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” NGẮN GỌN NHẤT 2
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cành trúc không buồn mà say”.
(Bích Khê).
Thôn Vĩ đẹp mộng mơ với vẻ buồn rất riêng đã là mảnh đất mà biết bao nhiêu thi sĩ bị say đắm và mê mải. Đến lượt Hàn Mặc Tử, với một nỗi niềm riêng thầm kín ông đã gửi vào trong tiếng thơ của mình những giai điệu và cảnh sắc rất riêng về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người thôn Vĩ, đặc biệt là lòng yêu đời, yêu người rất tha thiết và mãnh liệt của tác giả.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thnah tân, trẻ trung tràn đầy nhựa sống:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Câu thơ mở đầu vừa là một câu hỏi tu từ, vừa là một lời mời mọc, vừa là một lời trách cứ rất đáng yêu. Sao anh không về để ngắm nhìn thôn Vĩ thơ mộng và tươi đẹp thế kia. Nắng hàng cau buổi sớm còn nguyên vẻ thanh tân, trẻ trung và tươi mới căng tràn sức sống của nó. Cái nắng ấy đã tạo nên một gam màu tươi sáng cho bức tranh thiên nhiên. Vườn mướt xanh như ngọc với những chiếc lá xanh nõn nà, căng tràn nhựa sống và vì thế khu vườn như một viên bích ngọc lớn, lung linh. Nhưng sự ngỡ ngàng thích thú của nhà thơ được gửi gắm qua một chữ “quá” thật đáng yêu. Hẳn phải là một người yêu thiết tha thiên nhiên, với cuộc sống, có ân tình sâu sắc, đậm đà lắm mới họa ra một thôn Vĩ đẹp đến vậy. Trong bức tranh ấy, con người hiện lên hài hòa với thiên nhiên “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. không chỉ bằng lòng với việc tưởng tượng ra thôn Vĩ trong tâm tưởng, Hàn còn hòa mình vào khung cảnh ấy để cảm nhận sự sống, để như trở về cùng thôn Vĩ tươi đẹp. Đau đớn thay đó chỉ là sự trở về trong tâm tưởng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hình ảnh gió mây quen thuộc trong thi ca nhưng trong thơ Hàn với mặc cảm thầm kín lại hiện lên thật khác biệt. gió mây vốn cùng chung ngả, ấy vậy mà ở đây gió lại chia đôi ngả, tách biệt hẳn với mây. Đó là mặc cảm chia lìa vốn sâu trong tâm tưởng đã chia cắt cả những thứ không thể chia lìa. Đồng thời, đó cũng chính là vẻ đẹp buồn rất mơ mộng của xứ Huế thân thương. Cả hoa bắp lay vốn tự nó không buồn nhưng ở trong ngữ cảnh này hoa bắp lay dường như cũng nhuốm màu buồn thương. Đó là nỗi buồn của hồn người đã thấm thía vào cảnh vật để người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Hai câu thơ cuối thể hiện rất mãnh liệt khao khát của nhà thơ. Chữ “kịp” thể hiện khát khao níu giữ sự sống của con người trước lưỡi hái của thần chết đang cố níu giữ những giây phút cuối cùng để sống trọn vẹn những ngày tháng ngắn ngủi ấy. Đó chỉ có thể là một tấm lòng khát khao yêu đời mãnh liệt của một hồn thơ đau đớn đến thiết tha sống.

Đến khổ thơ cuối:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Hình ảnh khách đường xa một lần nữa thấy mặc cảm chia lìa của Hàn đã luôn vẽ mình trong thơ là khách đường xa, kẻ đứng ngoài cuộc. Đồng thời thấy được hình ảnh quá xa vời để có thể nắm bắt. n\Nếu ở trên kia, là hình ảnh cuộc sống bên ngoài tươi đẹp, trong trẻo đầy sức sống thì đến đây lại là không gian buồn bã, đau thương và xót xa. Hình ảnh con người xuất hiện mờ mờ nhân ảnh càng thể hiện sự khó nắm bắt của tác giả. Đến câu hỏi cuối, dường như là lời đáp lại của nhà thơ cho câu hỏi ở đầu bài thơ, ai biết tình ai có đậm đà, mặn mà mà trở về thôn Vĩ.

Bằng một hồn thơ đau thương đến quằn quại, Hàn đã sáng tạo nên những hình ảnh thật độc đáo, qua đó thấy được bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, đồng thời thấy được khát khao tình đời, tình người của nhà thơ mới tha thiết mãnh liệt làm sao.
 
Sửa lần cuối: